
Khi thể loại thơ Haiku của Nhật bản phổ biến sang Việt nam ,
rất nhiều người đã dày công dịch và sáng tác không những ở mảng thơ
mà cả lý luận nữa . Nói riêng mảng lý luận ,
từ những bài dịch đã giúp ta hiểu quá trình ra đời và phát triển
cũng như lề luật của thơ Haiku . Nhiều bài viết trong nước của các nhà nghiên cứu ,
nhà thơ còn cho ta sáng thêm những đặc thù của thể loại thơ này gắn
với đặc điểm con người và đất nước Nhật Bản ra sao . Người Việt Nam
làm thơ Haiku cần vận dụng sáng tạo như thế nào để không mất đi tính
“Haiku” nhưng lại gửi được tâm hồn và phong cách Việt vào đó . Những vấn đề này
vẫn còn đang được bàn luận , trao đổi thêm cho rõ hơn . Ta có quyền hy
vọng vào hướng phát triển đúng của nó chẳng những từ người nghiên
cứu mà ngay cả những người làm thơ . Trong bài viết này , tôi chỉ xin
được trao đổi sơ bộ về hai nội dung nhỏ là vần điệu và tiêu đề của
một phiến khúc Haiku .
Trong thơ Haiku Nhật , vần điệu trong một bài thơ không nêu thành
yêu cầu cụ thể . Những bài thơ dịch sang tiếng Việt dường như các
dịch giả cũng ít quan tâm đến vấn đề này . Ngay trong thơ Việt hiện
nay , nhiều tác giả cũng viết rất phóng khoáng chỉ
cần tâm trạng , ngôn từ và nhịp điệu . Tuy vậy , đại bộ phận người
làm thơ và công chúng thơ Việt nam vẫn chịu ảnh hưởng của thơ truyền
thống , vẫn ưa thơ có vần . Quả thực một bài thơ đạt đầy đủ các
yếu tố khác lại được gieo vần nhịp nhàng , mềm mại rõ ràng có sức
truyền cảm mạnh hơn . Đây cũng là một trong những nét riêng cần có
của thơ Haiku do người Việt sáng tác . Những cách gieo vần thành công
thường gặp trong các bài thơ gồm có vần chân ( Bằng , trắc ) và vần
lưng :
Chiếc lá vàng
Bay ngang
Se lạnh
*
Về thăm mẹ
Bước nhẹ
Cỏ thơm
*
Đòn gánh nương vai
Phố dài nắng sớm
Bước chân hương cốm
Vì đặc điểm rất ngắn của thơ Haiku nên người ta thường không
đặt tên riêng cho từng bài vì có thể số âm tiết trong tiêu đề không
ít hơn của chính bài thơ bao nhiêu , như vậy sẽ đánh mất sự cân đối .
Mặt khác , không có tiêu đề có thể mở rộng cảm xúc cho người đọc ,
bài thơ sẽ bay xa hơn trong không gian chiếm lĩnh của mình . Ưu điểm ấy
đôi lúc trở thành bất cập nếu người đọc đẩy tưởng tượng đi quá xa so
với những ý tưởng cơ bản của người sáng tác . Vì vậy một số tác giả
đưa ra giải pháp trung gian bằng cách đặt tên cho một cụm thơ năm hay
mười bài . Cách làm này tôi cho là hợp lý đối với cả người viết
lẫn người đọc . Chẳng hạn đọc chùm thơ sau :
Vu lan
Về thăm mẹ
Bước nhẹ
Cỏ thơm
*
Lối nhỏ lên chùa
Ngày xưa
Mẹ
*
Ngõ xóm gầy
Cha dắt tay
Lẫm chẫm
*
Nén nhang thơm ngát
Tàn rơi về đất
Khói quyện lên trời
*
Chong chong mắt
Ngước ban thờ
Thấp thoáng người xưa
Chắc rằng người đọc sẽ hướng thẩm
cảm của mình vào lòng hiếu nghĩa chứ không bị lạc sang lĩnh vực
cúng bái chung chung .
Trên đây là một số suy nghĩ chưa đầy đủ , mong được trao đổi
thêm .